TU THIỀN RA SAO?
- Soạn giả: Pram Nguyễn
- Ngày 1/3/2020
Phần 1
________
Thiền là cửa ngõ của bất cứ pháp tu nào của Phật-Giáo. Nếu xa lìa Thiền thì không có Pháp-Phật!
Theo KINH LĂNG-GIÀ thì có nhiều loại Thiền, các bạn nào muốn biết thì tìm tôn Kinh mà đọc.
Đọc không hiểu phải tìm bậc Đa-văn và có Thực-hành Thiền mà thỉnh hỏi. Nếu không dựa vào Kinh văn mà nói trống nói mái, nói xa nói gần thì phải tránh xa!
Quyết nghi xong thì quyết tâm tu-tập, nếu tu không đúng Kinh nói, thì hỏi lại.
Hỏi lại mà người chỉ dạy cũng chẳng biết gì hơn, không giới thiệu mình đến các bậc cao minh hơn thì quay về học Kinh và Sám hối cho nhiều. Vì sao? – Vì người chỉ dạy cho mình, chưa từng đi tham vấn các bậc Long Tượng trong Phật-Pháp vậy.
LÚC MỚI TU
—————–
Trước phải Sám Hối, nếu không tu Sám hối thì khác nào bình thúi mà cứ đổ mãi nước thơm! Nếu không làm được việc nầy, tu một thời gian thì bị thế sự đa đoan, lần lần quên tu, bỏ Đạo, quay sang học theo pháp tà của ngoại Đạo, mong cầu danh lợi, tiền bạc … Đa số người tu ngày nay vấp phải chỗ nầy mà té ngã! Uổng cho một đời tu!!!
Khi tâm được tảy sạch bằng các pháp Sám hối thì họ phát tâm cầu Thầy học Đạo, nhưng ở đây ngu nầy dùng “bậc chân Thiện-Tri-Thức” thì may ra tránh khỏ bị hiểu lầm là đi tìm các Tu-sĩ trong Chùa, Viện, Tinh Thất!
Phát tâm khẩn thiết cầu gặp bậc chân Thiện-Tri-Thức, bậc nắm giữ giềng mối của Chánh-Pháp. Khi đến với chư vị phải đem thân, khẩu-ý ra quy mạng, chớ có khinh lờn, cho dù là mĩm một nụ cười hay con mắt liếc ngang nhìn dọc! Phải phục vụ bậc chân Thiện-Tri-Thức như tôi trung thờ Chúa Thánh.
Người nào đã gặp được bậc chân Thiện-Tri-Thức mà còn tiếc thân mạng, tài sản thì ai muốn đem Thánh giáo ra truyền, để nhận lãnh ác nghiệp? Những kẻ hình cúc cung tận tụy mà lòng dạ phản trắc, đa đoan ác nghiệp dẫy đầy!
NẾU là bậc chân Thiện-Tri-Thức thì có Thiên Long vệ hộ, Trì Minh Vương giúp rập, ắt sẽ thấy, nghe, hay, biết mà trí phàm khó với tới, mở miệng là chân ngôn, cử tay động chân là mật ấn, há có thể dùng lời để diễn đạt được sao. Xem KINH HOA NGHIÊM, Phẩm Nhập Pháp-Giới mà rút kinh-nghiệm tu học.
NẾU đã cúng dường lên 100 hay 1.000 vị Phật, Bồ Tát thì trong đời nầy TỰ BIẾT biết phát Tâm Bồ-Đề.
NẾU chưa biết nhờ người chỉ dạy thì Tâm Bồ-Đề đó gặp duyên thì trôi nỗi!
Sau khi phát Tâm Bồ-Đề phải quay lại xem mình giữ Tam Quy và 5 Giới có đúng Chánh-Pháp của Như-lai không hay là theo ngoại Đạo tu học. Nếu thấy sai phải Sám-hối!
NẾU không giữ Tam Quy và Ngũ Giới thanh tịnh thì tu Thiền khó tiến! KINH THỦ LĂNG NGHIÊM cũng có nói rõ.
Trong Thập Thiện mình mỗi ngày làm được gì? Trong Thập Ác mỗi ngày mình phạm ác nào? Có làm tổn hại ai không? Có lăng mạ, khinh khi ai chưa? Vì tâm cống-cao, ngã-mạn không thể tu Thiền!
Tu Thiền lấy sự điều-tức (pranayama) hay theo Kinh văn Tiểu-Thừa thì “nín hơi thở” làm trọng. Nếu làm sai ắt sanh bệnh táo-bón trầm trọng hoặc trào máu mũi, miệng (lạc huyết), hoặc thần trí lơ lững … (Xem THIỀN BỆNH do ngài Xá-Lợi-Phất kết tập)
Tham khảo: Chia sẻ về quá trình điều tức (pranayama)
Nguồn FB:
TU THIỀN RA SAO?(Pram Nguyễn soạn ngày 1/3/2020)Chia thành nhiều phần(Phần 1)_____________________________Thiền…
Người đăng: Pram Nguyen vào Chủ nhật, 1 tháng 3, 2020
TU THIỀN RA SAO? – Phần 2
(Pram Nguyễn soạn ngày 1/3/2020)
_____________________________
Khi tu đúng tức là đình-chỉ hô-hấp trong vài phút là chuyện bình-thường.
1) Lúc mới bắt đầu rất khó đình-chỉ hô-hấp vì chúng ta thường hít thở bằng phần cách mô trên. Trung bình, mỗi ngày có 21.600 hô-hấp.
Khi hít vào thì có cả khí (prana) và gió (vayu) cùng đi vào miệng hay hai lỗ mũi. Còn khí và gió vào lỗi tai, v.v… mắt và các lỗ chân lông thì quá vi-tế không thể nhìn thấy.
Luồng khí và gió rất ngắn và tụ ở ngực, vì từ khi sanh ra con người chỉ thở như vậy, chưa một lần đem khí xuống phần rún, trừ phi tập võ, tập khí-công.
Khi gió ngưng ở phổi, khí được đem xuống bụng thì người nầy có bụng căng, no tròn và cứng như người tập hít đất lâu ngày.
Trước thấy khí-lực (prana) đi xuống dễ dàng. Tu-tập như vậy, người lợi-căn mau nhứt cũng phải mất vài ba tháng
2) Khi thấy như vậy phải bội phần sám hối. Lúc tu, khí xuống đầy bụng thì nhép hậu-môn nhẹ một chút cho khí ở hậu-môn và dương-vật/âm-hộ không thoát ra, thì luồng khí sẽ đi lên (như điện chạy dọc theo xương sống), thân thể thoải mái, trời lạnh cũng có thể toát mồ hôi.
Ở đây, ngu nầy không bàn đến pháp quán chữ “RAM” như ngài Padmasambhava (người Pakistan ngày nay) hay nữa chữ “A” như ngài Milarepa (người Tibet) … đã viết hay nói phớt qua trong các sách vở.
3) Khi khí-lực đến đầu thì Candali bắt đầu bùng phát. Hơi ấm từ dưới vùng bí-mật (sukhadhara chakra) đi lên. Đây khí-lực bị dồn nén đánh thức nguồn ái-dục bất tận trong nhục-thân (Nirmana chakra).
Hành giả có thể diện kiến đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như Lai như KINH THỦ-LĂNG NGHIÊM, Đoạn Ngũ Ấm Ma, giai-đoạn nầy là NGƯỜI TU VƯỢT QUA SẮC-ẤM nên vậy.
4) NGƯỜI TỰ MÌNH TU, không gần bậc chân Thiện-Tri-Thức, sẽ xãy ra hai trường hợp: (1) cuồng dâm hay loạn dâm, (2) Candali lên vùng ngực. Khi người tu đến giai đoạn lưng chừng nầy là đã VƯỢT QUA THỌ-ẤM liền thấy Thầy mình trong Thiền, v.v… rộng như KINH THỦ-LĂNG-NGHIÊM đã cảnh cáo.
5) Khi đó, các luồng gió và khí nhập vào vùng ngực (Dharma chakra) một cách ào ạt. Người tu có thể thấy xa, nghe được âm thanh khác, v.v… Khi người tu đến giai đoạn lưng chừng nầy là đã VƯỢT QUA TƯỞNG-ẤM, có thể biến hóa… v.v… rộng như KINH THỦ-LĂNG-NGHIÊM đã cảnh cáo.
6) Người tu thiếu phương-tiện thiện-xảo sẽ bị nghẽn tim, đột quỵ! Chết bất-đắc-kỳ tử hay tàn phế suốt đời.
7) Vì vậy, người không có bậc chân Thiện-Tri-Thức rất sợ tu Mật-Tông, sợ “tẩu hỏa nhập ma”. Hỏa đây là Candali.
Cũng nên nhắc lại, 12 thế kỷ sau thì Tantraism (Mật-Tông Ấn-Giáo) dùng chữ Kundalini để thay cho Candali. Sự khác biệt giữa Mật-Tông Phật-Giáo và Mật-Tông Ấn-Giáo khó phân biệt được nếu không phải là có mắt liên-hoa, tay kim-cang. Ở đây, ngu nầy cũng không cần phải giải-thích vì cho dù có viết ra, người chưa được Quán-đảnh cũng chẳng hiểu gì cả. Nếu có hiểu thì chỉ là danh-tự, rồi cưỡng từ đoạt lý, nói bậy ắt mang ác nghiệp.
Những bước tiếp sẽ không được giải-thích thêm. Khi nào ai đó có khả năng đình chỉ hơi thở 48 phút, qua khỏi Sơ-Thiền, Nhị Thiền thì hỏi cũng chưa muộn.
Đọc thêm:
- MẬT-GIÁO LÀ GÌ? TU HÀNH RA SAO? CÓ THỂ TỰ TU ĐƯỢC KHÔNG?
- TU HÀNH SAO KHÔNG LỌT VÀO HẦM SÂU TÀ KIẾN
- TÌM MINH SƯ TU HỌC MẬT TÔNG
- TU MẬT SAO BỊ RƠI VÀO LƯỚI MA
- TU THIỀN-MẬT THEO PRAM NGUYEN
- CÁCH ĐỌC KINH NHẬP NGHĨA KINH
- NHỮNG CẢNH GIỚI KHI SÁM HỐI VÀ TỤNG KINH
- TRÌNH CẢNH GIỚI TU TẬP
TU THIỀN RA SAO?(Pram Nguyễn soạn ngày 1/3/2020) (Phần 2)_____________________________Khi tu đúng tức là đình-chỉ…
Người đăng: Pram Nguyen vào Chủ nhật, 1 tháng 3, 2020
Mc Clayton Đức Phật ko khái niệm hoá tu thiền dựa vào gì là prana, khí lực, định chỉ hơi thở… bản thân đã vượt được các ấm ma từ sắc đến thọ tưởng thức hay vẫn còn vươn đâu đó mà có thể luận bàn. Ko thể có viên mãn tu hành mà nói, chỉ có vượt qua, vượt qua, mà không có sở đắc. Gì là định chỉ hơi thở 48 phút mới qua được giai đoạn sơ thiền. Phi lý, phi nhân quả. Các vị thiền sư như Thích Thanh Từ hay Thích Nhất Hạnh các ngài còn không dạy phải tu thiền thế nào, thì đây con người như ta làm sao có thể thấy biết chân thật.
Pram Nguyen Mc Clayton ráng học thêm Kinh! Học lóm Kinh Thủ Lăng Nghiêm rồi nói xằng. Thử nói Không Tam Muội tu ra sao rồi hãy đem 50 ấm Ma ra doạ! Làm sao vượt qua Sắc Ấm? Không nói được thì đừng lên phê bình bâng quơ.
Lan Thu Thích Nhất Hạnh biết mỗi thiền thư giãn thì làm sao dạy đây ạ, vị thiền sư này bây giờ động chân cử tay, nói được một câu còn khó khăn nữa. Vì vậy, khi chưa biết mình đang nói chuyện với ai, hay không hiểu người ta nói gì, thì phải ân cần hỏi trước. Đằng này lên mặt dạy bảo thật là hết thuốc ạ.
Mc Clayton Pram Nguyen dạ, con ko được học đến nơi đến chốn nhưng con vẫn ko dám tự nhận mình chứng đắc bản kinh Thủ Lăng Nghiêm để giáo hoá lại đại chúng, mà con cũng chưa từng đọc Kinh Phật nói về Prana, đình chỉ hơi thở, khí lực… con chưa bao giờ dám nghĩ mình chứng đắc hay vượt qua được 50 ấm ma. Nhưng chú thì khác, chú tự mình nghĩ mình đã chứng đắc và vượt thoát 50 ấm ma nên có thể diễn nói lưu loát như vậy.
Thới Lai Mc Clayton chứng với đắc . Bị ma nhíp rồi ????
Pram Nguyen Thới Lai con người khi chưa bị bạo bệnh thì chưa biết sợ chết!
Huyền Thơ em hay bị ngừng thở (quên thở) cả lúc tỉnh và lúc ngủ thì sao anh
Pram Nguyen Huyền Thơ khám tim!
Huyền Thơ Pram Nguyen tim vẫn bình thường anh ạ
Pram Nguyen Huyền Thơ vậy là tốt. Khi ngủ hay thức ngưng thở thỉnh thoảng quên hô hấp thì có thể do viêm hạch hạnh nhân (Tonsillistis) hay phì đại adenoid (viêm VA là hạch lympho hình tứ giác nằm sau thành họng). Đi Bác Sĩ Tai, Mắt Mũi, Họng nhờ kiểm xem sao. Chúc bạn may mắn.
TƯ-THẾ NGỒI THIỀN?
Soạn giả Pram Nguyễn
Ngày 7, tháng 3, 2020
—o0o —
Người mới tu phải ngồi Thiền theo định kỳ mỗi ngày, tuân thủ đúng quy tắc, nhứt là điều-tức.
Người tu lâu khởi nghi tình, hay tu theo công-án, v.v… thì đi, đứng, ngồi, nằm đều tu Thiền. Tuy nhiên, xưa nay nói về nằm Thiền thì chỉ có ngài A-Nan là đắc Đạo, kỳ dư là ngủ ngon giấc!
NGƯỜI SỐNG VỚI THIỀN THÌ NGAY CẢ KHI ÁI-ÂN CŨNG KHÔNG RỜI CẢNH-GIỚI TRONG ĐỊNH (KINH DUY-MA-CẬT). Nói là như vậy, chớ trên đời nầy hạng sơ cơ thì nhiều, mà bậc cao thâm thì hiếm.
NẾU HÀNH DÂM MÀ CÒN CHẤP NGÃ (ATMA), CHẤP-NHÂN VÀ CHẤP PHÁP THÌ SẼ SA VÀO ĐỊA-NGỤC! Không nên học từ chương, lấy câu chữ để biện-minh cho việc tội-lỗi của mình!
Các pháp tu cao của Bồ-Tát làm sao phàm-phu ngu-si, chướng-trọng, nghiệp lớn, hoặc dầy tu theo? Nên biết tự lượng sức của mình! Đừng bao giờ nhìn hành-động của chư vị, rồi bắt bén nói mình cũng là người tu, cớ sao làm không được!
Chưa tu đã phá tướng, cho là người nầy chấp, người kia bám, còn mình là người vô-tâm, vô-tướng, trong khi loạn tưởng dẫy đầy!
Phật-giáo dạy vô-vàn Pháp-môn tựu-trung có hai cửa đó là KHÔNG-MÔN và DIỆU-HỮU-MÔN.
Nên nhớ,
1) Không Tam-Muội là cứu-cánh của Thiền, cũng là cứu cánh của Tịnh-Độ, vì sao? – Vì NHỨT-THIẾT CHƯ PHẬT HIỆN-TIỀN TAM-MUỘI chính là tên khác của KHÔNG TAM-MUỘI. Do đó, ai nói tu KHÔNG TAM-MUỘI mà không thấy chư Phật là đồ láo-khoét, xảo-trá và lừa bịp!
2) Cũng chính KHÔNG TAM-MUỘI lại là cửa ngõ của Mật-Tông cấp-cao như Anuttarayoga Tantra (Du-Già Tối Thược thuộc Kim-Cang Thừa) hay Sahajayana (Câu-Sanh Khởi Thừa)!
VÌ SAO CÓ LUẬN-ĐIỆU NẦY? Phải chăng ngu nầy bị Quỷ-nhập hay Ma hoặc Tỳ-Na-Dạ-ca nhiếp-trì nói càng, nói sảng để quấy phá Phật-Giáo?
Hởi các bậc Trí giả! TÂM LẤY GÌ LÀM THỂ?
1) HỎI NGƯỜI TU THEO THIỀN
THIỀN LẤY TÂM LÀM TÔNG, nhưng hỏi Tâm thì các vị Thiền-Sư, cácvị Thiền-Chủ, hay các vị Thiền-giả, hoặc các vị Giáo-Chủ đương thời, ai nấy đều cù cù, cạc cạc!
Nói KIẾN-TÁNH THÀNH PHẬT mà Tánh gì chẳng ai thông!
Như vậy, có phải là mạng-mạch của Thiền đã đứt đoạn chăng?
2) HỎI NGƯỜI TU THEO MẬT-TÔNG
BỔN-TÔN (ISTA-DEVATA) LẤY GÌ LÀM THỂ? – Ít ai dám nhanh miệng, nhại mồm trả lời. Vậy mà nói được truyền-thừa từ các dòng Pháp không gián-đoạn!
Những hành-giả Mật-Tông mở miệng thì nói Thần-Chú lào lào, như nước tuôn thác đổ! Ví dụ, Thần-Chú Đại-Bi Tâm Đà-La-Ni, Thủ-Lăng-Nghiêm, v.v… từ miệng tuôn ra ào ạt, không kịp thở mà có mấy ai đắc được 1 trong 108 Tam-Muội hay biết chân-nghĩa của Ngũ Đệ Lăng-Nghiêm, hoặc tức Thân Thành Phật như Kinh thuyết!
(a) Tu Đại-Bi thành thì Thần-Chú Đại-Bi Tâm Đà-La-Ni bất-khả-tư-nghị.
(b) Phá vỡ Ngũ-Uẩn, thấy Ngũ Trí Như-Lai thì thành-biện Thủ-Lăng-Nghiêm.
Nói Mật-ấn thì phô-trương, múa tay động chân, quay cuồng như nhảy các vũ-điệu, mà không xuất ra uy-lực, vì sao? – Vì Tâm tán-loạn thì làm sao được!
“Mở miệng thành Chân-ngôn, dơ tay động chân đều là Mật-ấn” hình như đời nay, ít ai có khả-năng nầy!
3) HỎI NGƯỜI TU TỊNH-ĐỘ
Người tu lấy gì làm cứu-cánh? – Khác miệng đồng âm, mà ai nấy đều nói: Vãng-sanh Cực-lạc!
Hỏi vặn lại, “nếu sanh về cõi Diệu-Hỷ, Tịnh Lưu-Ly, Mãn-Nguyệt, Trang-Nghiêm, Khoái-Lạc, Vô-Thắng, Bất-Huyến, Tịnh Lưu-Ly, v.v… không phải là Tịnh-độ sao?” Đa phần, các vị Tịnh-giả nói là chẳng phải Tịnh-Độ! Họ còn nói là, “không hề biết đến các cõi ấy, làm sao biết Tịnh hay Uế.” Phật ơi! Học kiểu gì đây?
Vậy mà có lắm người hùng-hồ, dõng dạt, tuyên-bố nào là:
1) nào là Truyền Tâm-yếu,
2) nọ là Duy Tâm Tịnh-độ,
3) hay Phật tức Tâm.
Chư Phật ơi! Chư Bồ-Tát ơi! Thế-sự đã lắm nhiễu-nhương, còn đường Đạo thì mù-mịt, ai sẽ nối mạng mạch của Như-Lai đây! Khổ cho thế-gian!
VẬY NGƯỜI SƠ-CƠ NÊN TU THIỀN RA SAO?
Người trẻ thì khỏi nói; nhưng người có tuổi thường hay mõi lưng, đầu óc khó tập-trung, cách ngồi nên theo cách của Vương-giả (Rajasana hay Shrivijayan style).
Bản thân của ngu nầy thường ngồi theo thế Vương-giả nầy hay Hàng-Ma, hoặc Thành-Tựu, tùy theo pháp tu hay lúc giảng giải cho các Bộ-Chúng (không phải Người).
Ngu nầy chỉ ra những cách thức thực-hành thực-tiễn dựa theo kinh-nghiệm đổ vở nhiều phen mới thuần-thục của bản-thân, hay Kinh-điển. Cho nên, các bạn thương xin đừng gọi ngu nầy là Thiền-Sư hay Thầy, v.v… Vì ngôn bất như hành, thoảng như sau nầy tu chẳng được như sự mong cầu lúc phát tâm ban đầu, thì mạnh miệng giáng cho ngu nầy là thằng già “nổ” hay phô-trương, thùng rỗng kêu to thì nguy!
Hận mình tu chẳng bao nhiêu; cần học hỏi nhiều, và đặc-biệt là chẳng hề chứng một pháp hay đắc một quả-vị nào cả; nên không hề có ý dạy bất cứ ai tu-tập!
Nghĩ mình Nghiệp dầy, Chướng lớn, Tội nặng nên ngu nầy chỉ biết ngày đêm lo Sám-hối, Thiền quán Vô-sanh cầu mong tội diệt, nghiệp mỏng, chướng mòn.
Vì vậy, tùy theo sự hiểu biết của các bạn mà hãy tự lập ra cách tu cho riêng mình.
1) Nếu thấy thuận-hợp thì tiếp-tục, may cho các bạn mà cũng khiến Thiên Long vui-vẽ, đêm ngày vệ-hộ!
2) Nếu thấy không tiện, hay không hay, như sự mong chờ của các bạn, thì nên thỉnh hỏi các bậc cao-minh, có thể chìu theo ý của các bạn khi tu-tập, mà chỉ-giáo!
Ngu nầy vạch ra cách-thức, nhưng không bao giờ khuyên các bạn tu chứng nầy, đắc nọ, hay thấy cảnh-giới nầy, được thông nọ, trí kia! Vì sao? – Vì con đường đến Bảo Vương Thành tuy có một, nhưmg có nhiều trạm, lại có lắm lối rẽ.
CÁCH NGỒI CỦA VƯƠNG-GIẢ RA SAO? – Ngồi trên ghế phẳng cứng, nếu lớn tuổi mông teo thì lót gối mõng để không bị tê đau, thẳng lưng kéo chân trái vào lòng, chân phải duổi ra hay để trên một ghế đẩu nhỏ.
Bắt đầu, tu tập THIỀN NÍN-THỞ hay THIỀN KHÔNG HƠI THỞ. Thiền nầy là cách tu ngày xưa của tất cả những người tu khổ-hạnh.
Pháp tu Thiền nầy, lúc ban đầu ngay cả đức Thái-Tử Tất-Đạt-Đa (Siddhartha Gautama) cũng tu và đặc-điểm của nó được ngài tuyên-bố:
Lạnh lẽo, đêm nghỉ
Trong núi Đại uý;
Thân thể cởi trần:
Ta đã thệ nguyện.
Thật ra, tu Thiền nầy chính là CANDALI-YOGA, theo tiếng Tây-Tạng gọi là Tummo, đã được đức Phật áp-dụng khi ngài 16 tuổi, cho đến 29 tuổi (xem CANDAMAHAROSANA TANTRA). Tuy nhiên, đối với ngoại Đạo thì đức Phật dạy như pháp của họ để nhiếp-phục họ. Các Kinh điển Tiểu-Thừa có dạy rõ.
Ngài Trí-giả Đại Sư viết LỤC DIỆU PHÁP-MÔN, hoàn toàn không dựa vào Kinh văn Mật-Tông cấp cao, mà dựa vào sự tu-chứng của Ngài.
Tu-tập Candali-Yoga đúng cách thì thân nhiệt sẽ bốc cao; cho nên, người tu phải cởi trần …!
Đây cũng là cách tu của hệ-thống HEVAJRA TANTRA. Kinh-văn nầy có đến 500.000 bài kệ; nghĩa là gấp tư toàn bộ KINH HOA-NGHIÊM, diễn-tả tiến-trình thành Đạo của Thái-Tử Tất-Đạt-Đa.
Hiện nay, HEVAJRA TANTRA chỉ còn một phần nhỏ dịch là ĐẠI-BI KHÔNG-TRÍ ĐẠI GIÁO VƯƠNG NGHI-QUỸ KINH (khoảng 2000 bài kệ). Vì vậy, có thể nói, ngày nay rất hiếm có hành-giả nào có thể đem Candali lên đến đảnh đầu.
Candali hoàn-toàn khác với Prana (Khí) và Vayu (Gió), nhưng không lìa 5 luồng Prana và 5 luồng Vayu. Không nên lầm nhận hai thứ nầy là một!
Kim-Cang Thừa (Vajrayoga) ở GIAI-ĐOẠN HOÀN-TẤT thì bậc Kim-Cang Đạo-Sư sẽ chỉ-dẫn cách tu, cho đến khi hành-giả:
1) chứng Kim-Cang Thân (Vajrayana) và
2) hiện ra vô-vàn hóa-thân đi vào các cõi Phật.
Trong phạm-vi của người sơ-cơ, ngu nầy xin trích Kinh-văn “Tiểu-Thừa” để hướng- dẫn.
KINH-TẠNG NIKAYA (Pali-Việt) viết,
“Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: “Ta hãy nghiến răng, dán chặt lên lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm!” Này Aggivessana, rồi Ta nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Khi Ta đang nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, mồ hôi thoát ra từ nơi nách của Ta. Này Aggivessana, như một người lực sĩ nắm lấy đầu một người ốm yếu hay nắm lấy vai, có thể chế ngự, nhiếp phục và đánh bại người ấy. Này Aggivessana, khi Ta đang nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, mồ hôi thoát ra từ nơi nách của Ta, này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Ta hãy tu Thiền nín thở”. Và này Aggivessana, rồi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang qua mũi. Này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang qua mũi, thì một tiếng gió động kinh khủng thổi lên, ngang qua lỗ tai. Này Aggivessana, ví như tiếng kinh khủng phát ra từ ống thổi bệ đang thổi của người thợ rèn. Cũng vậy, này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang qua mũi, thời một tiếng gió động kinh khủng thổi lên, ngang qua lỗ tai. Này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị kích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.”
— # —
Còn KINH TẠNG A-HÀM (Phạn-Hán) viết:
“Bấy giờ, chư thiên trông thấy liền nói, ‘Sa-môn Cù-đàm đã diệt độ!’ Lại có chư thiên nói, ‘Sa-môn này chưa chết, nay ắt phải chết.’ Có chư thiên lại nói, ‘Sa-môn này không phải chết! Sa-môn này thực là A-la-hán. Pháp La-hán thường có khổ hành này.’
“Bấy giờ, Ta còn thần thức, biết được chuyện bên ngoài. Ta lại nghĩ: ‘Nay lại nhập vào thiền không hơi thở.’ Và Ta liền nhập vào thiền không hơi thở, đếm hơi thở ra vào. Ta do đếm hơi thở ra vào, giác biết có hơi từ lỗ tai ra. Khi ấy, tiếng gió như tiếng sấm. Ta lại nghĩ: ‘Nay Ta ngậm miệng, bịt tai cho hơi thở không ra.’ Hơi thở vì không ra được, khi đó hơi thở theo chân và tay mà ra. Giả sử khi hơi không ra từ tai, mũi, miệng, bấy giờ, bên trong như tiếng sấm rền. Ta cũng thế, khi ấy thần thức vẫn còn chuyển theo thân.
Ta lại nghĩ: ‘Ta hãy nhập lại thiền nín thở.’ Khi ấy, Ta phong bế hết các lỗ thở. Ta vì phong bế các hơi thở ra vào, đầu trán liền đau nhức như có người lấy dùi mà dùi đầu. Ta cũng vậy, đầu đau rất khổ sở.
“Bấy giờ, Ta vẫn còn thần thức. Ta lại nghĩ: ‘Nay Ta nên ngồi [671b01] thiền, dứt hơi thở, không cho hơi thở ra vào.’ Khi ấy, Ta liền bít hơi thở ra vào. Các hơi thở dồn xuống bụng. Lúc hơi thở chuyển động hết sức nhỏ nhiệm, như đồ tể cầm đao giết bò, Ta cũng vậy, hết sức đau đớn. Cũng như một người yếu đuối bị hai người mạnh khỏe nắm lấy đem nướng trên lửa, đau đớn chịu không nỗi. Ta cũng vậy, khổ đau này không thể trình bày đầy đủ.
“Bấy giờ, Ta vẫn có thần thức. Ngày ngày Ta ngồi thiền, thân thể không có màu sắc giống người. Có người trông thấy nói, ‘Sa-môn này có màu da quá đen.’ Có người thấy nói, ‘Sa-môn này có da như màu chàm.’
— # —
Vì vậy, tùy theo cách lựa chọn, các bạn phải tu tập trước và yêu cầu của ngu nầy là nín-thở hay ngừng hô-hấp 4 phút. Những người nhái của Hải quân Hoa-Kỳ có thể giữ hơi thở khoãng 3 phút, không cần bình dưỡng khí, chẳng lẽ người tu chút đòi hỏi nầy mà làm không xong?
Nếu không làm được như vầy thì phải theo cách thức mà ngu nầy vừa hướng-dẫn cho ông Van Hung Nguyen, khi ông hỏi: “Cách trì như thế nào là đúng nhất trong điều kiện đơn giản không đủ phương tiện.”
Ngu nầy viết, “Bạn tự tu pháp Sám hối tự thọ Giới giống như KINH HOA NGHIÊM dạy. “Tự quy y … tự quy y Pháp… tự quy Tăng”. Nếu có tuổi không ngồi kiết già, Hàng ma, Kiết tường thì ngồi trên ghế: chân trái co vào chân phải duỗi ra hay thòng xuống; thẳng lưng, điều tức đọc bài sám hối, thay vì lạy chấp tay để trên đỉnh đầu (nếu làm không được hay đau vai, ngực là tự biết bị bệnh!), kéo xuống trán, cổ và ngực thì xá 3 xá và tưởng nhớ ngu nầy (nếu tu sai thì Pram Nguyen chịu tội); sau đó đọc Thần chú Thanh tịnh vả Không; ắt lần hồi tội diệt phước sanh. Ngoài ra, nên tụng Kinh Đại Thừa ngắn như DIÊN MẠNG ĐỊA TẠNG, PHỔ BIẾN TRÍ TANG BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH, v.v… y pháp cúng dường bằng tịnh tài… thỉnh hỏi Thiện Tri Thức chỗ mình chưa hiểu… kính bạn.”
Ngày hôm sau, Van Hung Nguyen trả lời Pram Nguyen:
“Lúc 1,4 mình thức dậy, ngồi bán gìa chận trái trên vế phải. Hai tay chấp ngang ngực, hít sâu thở nhẹ ba lần. Sau đó đưa lên đỉnh đầu quán chử RAM, quang minh sáng rộng khắp và mình cũng biến thành chữ Ram .Trong chữ này dần hịễn ra hình Pram Nguyen, sau đó hai tay kéo dần xuống ngay ngực, lưu giữ hình ảnh và ánh sáng nầy, miệng bắt đầu tụng: Con tự qui y Phật, Pháp, Tăng… Nhiều lần như vậy,mổi lần đều có cảm gíac rần hai cánh tay, toàn thân mát nhẹ như gió thổi vào, cảm thấy khinh an đầy thư giãn, thời gian công phu thoáng chốc đã 1h15ph khộng thấy mỏi mệt, lại còn tỉnh táo thêm. Chẳng biết đã đúng chưa, nhưng mình rất thích.”
Pram Nguyen còn căn-dặn ông Van Hung Nguyen:
“RA là Hoả Đại là Phật A Di Đà là TỊNH PHÁP GIỚI, nếu tu đúng thì tâm không bám chấp vào thế gian, không bị khách trần lục dục nhiễm, lâu ngày tiếp nhận viên quang của Phật A Di Đà, chưa bỏ nhục-thân mà toà sen nơi cõi Cực-Lạc đã chờ sẳn. Trái lại, thấy chút cảnh giới tự cho là đủ, bám chấp thế, lo con lo cháu… là tà quán, ắt sanh cuồng huệ, sẽ bị Ma nhiếp trì!
Mừng cho bạn, có tâm tín-lạc, nên được gia-trì.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô Vô Lượng Quang Phật!
Nam mô Vô Lượng Thọ Phật!
Nam mô tây phương Cực Lạc cách đây 10 muôn ức cõi (vì có vô lượng cõi trùng tên, nói nói phương tây; khoảng giữ Ta-Bà và Cực-Lạc rất khó vượt qua!)
— Hết —
Xem Pramnguyen.com vào Niệm Phật Có Chắc Chắn Vãng Sanh Không? Trang 16-19
Đọc thêm:
TRÌNH CẢNH GIỚI TU TẬPSoạn giả Pram NguyenNgày 22/4/2020— o0o — Hôm nay là ngày rằm cũng là đúng 2 tháng ta…
Người đăng: Pram Nguyen vào Thứ Tư, 22 tháng 4, 2020
TƯ-THẾ NGỒI THIỀN?Soạn giả Pram NguyễnNgày 7, tháng 3, 2020—o0o —Người mới tu phải ngồi Thiền theo định kỳ…
Người đăng: Pram Nguyen vào Thứ Bảy, 7 tháng 3, 2020
Nguyễn Lê Minh Đức Kính bạch chú. Khi xưa con đi chùa thấy tượng của các bồ tát như Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền bồ tát hay ngồi tư thế như chú nếu trên. Con cảm thấy thích thú và về ngồi như vậy thấy rất thoải mái, thinh an, tâm an lạc và vui vẻ. Nhưng đôi lúc nghĩ lại còn phàm phu nghiệp dày, sao ngồi tư thế của bồ tát ( vì lúc đó con không biết đây là kiểu ngồi vương giã). Xong lúc hành thiền hít thở, tập theo trên mạng tập trung vào giữa trán, ngồi kiết già. Con cũng thực hành chăm chỉ khoảng 2 tháng và kết quả đầu con đau nhứt, vai gáy tê tê. Đầu óc không minh mẫn, không sáng suốt và kém nhạy bén. Khi ngồi thì màn đêm bao phủ. Giữa tâm mắt con nhìn thấy có quầng sáng vàng…có khi thì một tâm sáng màu vàng như đóm lửa, hít sâu vào thì nó sáng mạnh lên. Và rồi con bỏ.
Sau một thời gian con chỉ ngồi kiết già hoặc bán già và tập trung vô hơi thở. Tâm thấy an lạc và dễ chiệu hơn. Đến nay cũng khoảng hơn 3 tháng rồi con ít khi ngồi thiền. Lúc gặp chú đên nay con chỉ sám hối và lễ chư Phật thôi.
Con có cái cajon bằng gỗ. Hay ngồi lên đấy và ngồi thiền trên đấy, đôi lúc ngồi thế vương giã thì con thấy thoai mái hơn nhiều khi ngồi ở dưới sàn. Nhưng sợ ngồi thiền tùm tum lại không tốt nên con Hạn chế.
Mong chú chỉ cho tỏ cái ngu ra .????
Pram Nguyen Tư thế ngồi của bậc Vương giả áp dụng cho bà bầu, người có tuổi tốt nhứt. Còn trai tráng thì tréo chân, kiết già, bán già (hàng phục hay kiết tường) hay theo thế của chư Thành tựu giả (Siddhasadana). Tư thế nầy rất khó, không giải thích.
Nguyễn Lê Minh Đức Pram Nguyen dạ. Con đã hiểu ạ. Tuy nhiên. Việc tréo chân này lên chân kia có phân ra nam nữ không ạ. Hay là tùy mỗi người vậy chú
Pram Nguyen Nguyễn Lê Minh Đức không.
Vinh Trần Cư Sỉ Tại Gia Tâm Xuất Thế
Áo Bồ Tát Hạnh Khoác Chu Du….
TU THIỀN SAO TỰ KIẾT ẤN, CƠ THỂ UỐN ÉO
Soạn giả Pram Nguyen, trả lời bạn Tuấn Kiệt
Ngày 18/03/2020
— o0o —
Cháu xin mạn phép được xin chú vài lời giảng ạ. Khi thiền tập tại gia, gặp các hiện tượng lạ như tay tự kết ấn, cơ thể uốn éo, các luống ánh sáng… thì có phải do quỷ thần hay nguyên nhân nào khác ạ. Và các hiện tượng này có lợi hay hại, nếu hại thì làm thế nào để tự thiền tại gia một cách an toàn được mà vẫn tinh tấn được ạ. Cháu không tham thiền trì chú mà chỉ tham thiền vipassana quán hơi thở ạ.
__________________
Tuấn Kiệt! Hiện tượng nầy rất phổ thông.
Khi con tu hành tinh tấn và quyết chứng mà không biết kiết giới, hộ thân thân thì quỷ thần muốn cướp công đức của con, muốn chiếm thân xác con thì những hiện tượng nầy hiện ra.
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
ĐOẠN VIII
BẢO-HỘ HÀNG SƠ-TÂM RỜI MA-CHƯỚNG, CHÓNG KHAI NGỘ.
“Vậy nên Như-lai tuyên-dạy chú nầy, bảo-hộ cho những người tu-hành sơ-học, trong đời vị-lai, vào Tam-ma-đề, thân tâm thư-thái, được đại-an-ẩn, không còn tất-cả các ma, quỷ-thần, và những oan-khiên đời trước, nghiệp cũ, nợ xưa, từ vô-thủy tới nay, đến khuấy-hại nhau. Ông với những người hữu-học trong chúng và những kẻ tu-hành đời vị-lai, y như lời-dạy của tôi mà lập đàn-trường, đúng theo pháp mà trì-giới, gặp được tăng-chúng thanh-tịnh chủ-trì việc thụ-giới, đối với chú-tâm nầy, không sinh lòng nghi-hối; những thiện-nam-tử như thế, chính nơi cái thân cha mẹ sinh ra, mà không được tâm-thông, thì thập phương Như-lai bèn là vọng-ngữ”.
KIẾT GIỚI RA SAO?
Kiết giới là lập giới hạn của mình, ví dụ một cái phòng, hay cái giường ngũ. Khi kiết giới thì không cho nữ nhơn (con là nam, và ngược lại nếu là nữ), chó, mèo lãng vãng. Không được có mùi hôi thúi, ẩm thấp trong phạm vi đó. Thắp nhang 1 cây, có khói, không nên dùng nhang không khói hay nhang nhúng hóa chất cho cong. Thân thể sạch sẽ, mặc áo quần rộng. Trời nực thì cởi trần, mặc xà lỏn mà ngồi tu. Nhớ đem theo một cái khăn, vì ngồi đúng cách mồ hôi tuôn chảy thoảng thoảng lau.
HỘ THÂN
Dùng Kim Cang ấn (tay co các ngó vào trong, để ngón cái co vào chạm đốt dưới cùng của ngón giữa, ngón trỏ co lại đầu an trên ngón cái) các chỗ trên thân, mỗi khi an ấn đọc HÙM: trán, vai phải, vai trái, cổ, xương sống sau thắt lưng, gáy cổ và xả ấn trên đỉnh đầu.
THỈNH NGUYỆN, TU TẬP XONG PHẢI HỒI HƯỚNG
Con nay nương hạnh Thánh tu tập Thiền tọa, xin hoan hỷ và gia hộ con….
ĐIỀU TỨC
Phải biết tu theo pháp An-ban quán niệm hơi thở. Đọc Kinh chớ không phải chỉ nghe giảng.
KINH TĂNG NHẤT A-HÀM
(PL.2549 – sửa chữa và bổ sung)
Hán Dịch: Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà
Việt dịch: Thích Đức Thắng
Hiệu đính & Chú thích: Tuệ Sỹ
—o0o—
HAI PHÁP
17. PHẨM AN-BAN
KINH SỐ 1[33]
[581b15] Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.
Bấy giờ, đã đến giờ, Thế Tôn đắp y ôm bát, dẫn La-hầu-la[34] vào thành Xá-vệ để khất thực[35]. Khi ấy Thế Tôn quay qua bên phải bảo La-hầu-la:
“Ngươi nay hãy quán sắc là vô thường.”
La-hầu-la thưa:
“Kính vâng, bạch Thế Tôn, sắc là vô thường.”
Thế Tôn bảo:
“Này La-hầu-la, thọ*, tưởng, hành, thức đều là vô thường.”
La-hầu-la thưa:
“Kính vâng, bạch Thế Tôn, thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường.”
Khi ấy, Tôn giả La-hầu-la lại tự nghĩ: “Ở đây có nhân duyên gì, hôm nay mới đi vào thành để khất thực, đang trên đường đi, cớ sao Thế Tôn trực tiếp dạy dỗ ta? Bây giờ ta hãy trờ về trú xứ, không nên vào thành khất thực.”
Khi ấy, Tôn giả La-hầu-la, đang giữa đường liền trở về tinh xá Kỳ-hoàn, cầm y bát đến dưới một bóng cây, chánh thân, chánh ý, ngồi kiết già, chuyên tinh nhất tâm suy niệm sắc vô thường; suy niệm thọ*, tưởng, hành, thức vô thường.
Bấy giờ, Thế Tôn khất thực ở thành Vương-xá xong. Sau khi ăn rồi, một mình kinh hành tại tinh xá Kỳ-hoàn, lần hồi đến chỗ La-hầu-la. Đến đó rồi, Phật bảo La-hầu-la rằng:
“Ngươi hãy tu hành pháp an-ban[36]. Tu hành pháp này, có tâm tưởng sầu ưu đều sẽ trừ diệt hết. Nay ngươi lại nên tu hành tưởng bất tịnh ghê tởm, nếu có tham dục, thì sẽ trừ diệt hết.
Này La-hầu-la, nay ngươi phải tu hành từ tâm. Đã hành từ tâm rồi, nếu có sân nhuế, thì sẽ trừ diệt hết.
Này La-hầu-la, nay ngươi phải tu hành bi tâm. Đã hành bi tâm rồi, nếu có tâm hại, thì sẽ trừ diệt hết.
Này La-hầu-la, nay ngươi phải tu hành hỷ tâm. Đã hành hỷ tâm rồi, nếu có tâm tật đố, thì sẽ trừ diệt hết.
Này La-hầu-la, nay ngươi phải tu hành tâm xả.[37] Đã hành tâm xả* rồi, nếu có kiêu mạn, thì sẽ trừ diệt hết.”
Bấy giờ, Thế Tôn hướng về La-hầu-la, liền nói kệ này:
Chớ luôn khởi tưởng đắm,
Thường phải y thuận pháp.
Người hiền trí như vậy,
Danh đồn vang khắp nơi.
Cầm đuốc sáng cho người,
Phá màn vô minh lớn;
Trời, rồng thảy phụng kính,
Tôn thờ bậc sư trưởng.
Lúc ấy Tỳ-kheo La-hầu-la dùng kệ này thưa Thế Tôn rằng:
Con không khởi tưởng đắm,
Hằng tùy thuận theo pháp.
[582a01] Người hiền trí như vậy
Kính thờ là sư trưởng.
Sau khi Thế Tôn dạy bảo xong, trở về tĩnh thất. Lúc ấy, Tôn giả La-hầu-la lại tự nghĩ: “Tu hành an-ban như thế nào để trừ bỏ sầu ưu, không có các tưởng?” Rồi La-hầu-la từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến chỗ Thế Tôn. Đến nơi rồi, đảnh lễ sát chân, ngồi qua một bên. Ngay sau đó, ngồi lui, bạch Thế Tôn rằng:
“Tu hành an-ban như thế nào để trừ bỏ sầu ưu, không có các tưởng, được quả báo lớn, được vị cam lồ?”
Thế Tôn bảo:
“Lành thay, lành thay, La-hầu-la! Ngươi có thể ở trước Như Lai rống tiếng rống sư tử hỏi mà hỏi nghĩa này: ‘Tu hành an-ban như thế nào để trừ bỏ sầu ưu, không có các tưởng, được quả báo lớn, được vị cam lồ?’ Này La-hầu-la, nay ngươi hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ, Ta sẽ phân biệt nói đầy đủ cho ngươi.’
Thưa:
“Kính vâng, Thế Tôn!”
Tôn giả La-hầu-la vâng lời dạy từ Thế Tôn. Thế Tôn bảo:
“Này La-hầu-la, ở đây Tỳ-kheo ưa thích ở nơi vắng vẻ không người, chánh thân chánh ý, ngồi kiết già, không có niệm khác, buộc ý trên chóp mũi. Thở ra dài, biết hơi thở dài. Thở vào dài, cũng biết hơi thở dài. Thở ra ngắn, cũng biết hơi thở ngắn. Thở vào ngắn, cũng biết hơi thở ngắn. Hơi thở ra lạnh, cũng biết hơi thở lạnh. Hơi thở vào lạnh, cũng biết hơi thở lạnh. Hơi thở ra ấm, cũng biết hơi thở ấm. Hơi thở vào ấm, cũng biết hơi thở ấm. Quán toàn thân, hơi thở vào, hơi thở ra; thảy đều biết rõ. Có lúc có hơi thở, cũng lại biết là có. Có lúc không có hơi thở, cũng lại biết là không. Hoặc hơi thở từ tâm ra,[38]cũng lại biết từ tâm ra; hoặc hơi thở từ tâm vào*, cũng lại biết từ tâm vào.
“Như vậy, La-hầu-la, ai tu hành an-ban, sẽ không có tưởng sầu ưu, não loạn, được quả báo lớn, được vị cam lồ.”
Sau khi nghe Thế Tôn nói pháp vi diệu đầy đủ xong, La-hầu-la từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật, nhiểu quanh ba vòng rồi, rồi đi. Đến dưới một bóng cây trong rừng An-đà[39], chánh thân, chánh ý ngồi kiết già, không có một niệm nào khác, buộc tâm trên chóp mũi. Thở ra dài, biết hơi thở dài. Thở vào dài, cũng biết hơi thở dài. Thở ra ngắn, cũng biết hơi thở ngắn. Thở vào ngắn, cũng biết hơi thở ngắn. Hơi thở ra lạnh, cũng biết hơi thở lạnh. Hơi thở vào lạnh, cũng biết hơi thở lạnh. [582b01] Hơi thở ra ấm, cũng biết hơi thở ấm. Hơi thở vào ấm, cũng biết hơi thở ấm. Quán toàn thân, hơi thở vào, hơi thở ra; thảy đều biết rõ. Có lúc có hơi thở, cũng lại biết là có. Có lúc không có hơi thở, cũng lại biết là không. Hoặc hơi thở từ tâm ra, cũng lại biết từ tâm ra; hoặc hơi thở từ tâm vào*, cũng lại biết từ tâm vào.
Bấy giờ, La-hầu-la tư duy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục,[40] không còn các thứ ác, có tầm, có tứ,[41] có hỷ lạc do viến ly sinh,[42] chứng và an trú[43] sơ thiền. Tầm từ đã dứt,[44] nội tâm tịch tĩnh,[45] chuyên tinh nhất tâm[46]; không tầm, không tứ, có hỷ lạc do định sinh,[47] chứng nhập và an trú* nhị thiền. Lìa hỷ, an trú xả,[48] giác tri thân lạc, điều mà các Hiền thánh nói, xả, niệm, an trú lạc,[49]chứng nhập và an trú an trú* tam thiền. Khổ và lạc kia đã diệt, ưu hỷ trước cũng đã diệt, không khổ không lạc; xả, niệm thanh tịnh,[50] chứng nhập và an trú* tứ thiền.
Với tâm tam-muội[51] này, thanh tịnh không bụi nhơ, thân thể nhu nhuyến,[52] La-hầu-la biết mình từ đâu đến, nhớ những việc đã làm trước kia, tự biết đời trước, những việc trong vô số kiếp trước; cũng biết một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, nghìn đời, vạn đời, hàng nghìn vạn đời, kiếp thành, kiếp bại, vô số kiếp thành, vô số kiếp bại, ức năm không thể kể xiết: Ta đã từng sinh nơi kia, tên gì, họ gì, ăn thức ăn như vậy, hưởng khổ vui như vậy, thọ mạng dài ngắn, chết kia sinh đây, chết đây sinh kia.
Với tâm tam-muội này,* thanh tịnh không tì vết, La-hầu-la cũng không còn các kết, cũng biết chỗ khởi của tâm chúng sanh. Bằng thiên nhãn thanh tịnh không tì vết, La-hầu-la quán biết như thật các loài chúng sinh, người sống, kẻ chết, sắc đẹp, sắc xấu, đường lành, đường dữ, hoặc tốt, hoặc xấu, điều đã làm, điều đã tạo. Hoặc có chúng sanh thân hành ác, miệng hành ác, ý hành ác, phỉ báng Hiền thánh, thường hành tà kiến, tạo hạnh tà kiến, thân hoại mạng chung. sinh vào địa ngục. Hoặc lại có chúng sanh thân hành thiện, miệng hành thiện, ý hành thiện, không phỉ báng Hiền thánh, thường hành chánh kiến, tạo hạnh chánh kiến, thân hoại mạng chung sinh lên trời cõi thiện. Đó gọi là thiên nhãn thanh tịnh không tì vết, quán biết như thật các loài chúng sanh, người sống, kẻ chết, sắc đẹp, sắc xấu, đường lành, đường dữ, hoặc tốt, hoặc xấu, điều đã làm, điều đã tạo.
Rồi lai vận dụng ý, thành tâm vô lậu. La-hầu-la lại quán biết như thật đây là khổ; lại quán biết như thật đây là tập khởi của khổ, cũng quán biết như thật đây là [582c01] sự diệt tận khổ, cũng quán biết như thật đây là xuất yếu của khổ. La-hầu-la quán biết như thật như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu; được giải thoát khỏi hữu lậu, vô minh lậu. Đã được giải thoát, nên liền được trí giải thoát, biết rằng, sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sinh đời sau. Bấy giờ, Tôn giả La-hầu-la thành A-la-hán.
Sau khi Tôn giả La-hầu-la thành A-la-hán rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, ngồi lui qua một bên, bạch Thế Tôn rằng:
“Sở cầu của con đã đạt được, các lậu đã tận trừ.”
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Trong những vị đắc A-la-hán, không có ai bằng La-hầu-la. Luận về người mà các hữu lậu đã dứt cũng là Tỳ-kheo La-hầu-la. Luận về người trì giới cấm cũng là Tỳ-kheo La-hầu-la. Vì sao vậy? Vì chư Như Lai Đẳng Chánh giác đời quá khứ cũng có Tỳ-kheo La-hầu-la này. Muốn nói con Phật cũng là Tỳ-kheo La-hầu-la, đích thân từ Phật sinh, là người thừa tự pháp.”
Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Trong hàng Thanh văn của Ta, đệ tử bậc nhất trì giới cấm chính là Tỳ-kheo La-hầu-la.”
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ này:
Pháp cấm giới đầy đủ,
Các căn cũng thành tựu;
Dần dần sẽ cũng được,
Sạch tất cả kết sử.
Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
— # —
Ngoài ra, con cần phải học
1) Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya) – 36. ÐẠI KINH SACCAKA (Mahàsaccaka sutta)
http://www.tuvienquangduc.com.au/kinhdien/Trungbo/trungbo036.html
2) KINH TỌA THIỀN TAM MUỘI
– Hán dịch: Tam tạng Cưu Ma La Thập Ðời Diêu Tần
– Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
http://www.tuvienquangduc.com.au/kinhdien/74toathientammuoi.html
3) PHÁP MẬT YẾU TRỊ BỆNH THIỀN
– Hán dịch: Cư sĩ Thư Cừ Kinh Thanh, đời Tống
– Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
http://www.tuvienquangduc.com.au/kinhdien/73phapmat.html
Chúc con không còn bị quỷ thần phá và tu Thiền tiến bộ tùy theo căn tánh ngộ nhập Thiền-Định.
TU THIỀN SAO TỰ KIẾT ẤN, CƠ THỂ UỐN ÉOSoạn giả Pram Nguyen, trả lời bạn Tuấn KiệtNgày 3/18/2020— o0o —8…
Người đăng: Pram Nguyen vào Thứ Tư, 18 tháng 3, 2020
Tuấn Kiệt Con xin cảm ơn ạ.
Pram Nguyen Tuấn Kiệt theo huong dẫn 2 tuần. Nhớ đọc kỷ kinh văn.
Lê Nguyễn Quỳnh Rất tri ân, cảm ơn lời dạy của chú Pram! Cá nhân mình thì có 1 thể nghiệm về việc ở trần khi ngồi thiền. Các pháp Đại thừa thường dạy, phải ăn mặc trang nghiêm, áo dài, quần dài khi lễ Phật, thực hành Phật pháp. Nhưng Mật thừa, các hành giả Yogi du già lại ở trần ngồi thiền. Nghe qua 2 điều này có vẻ mâu thuẫn nhưng thực tế lại rất nhất quán. Chư Phật, Bồ tát đã đắc tánh Không thì ko bao giờ chấp sạch hay bẩn, nghiêm trang hay suồng sã ở tướng vì các Ngài chỉ nhìn bản tâm, các trạng thái tâm. Vì thế, ở trần mà tâm nghiêm trang, thanh tịnh thì chư Phật, Bồ tát ko cho là lỗi. Nhưng các vị thiện thần, các vị thánh, các bổn tôn thế gian chưa đắc tánh Không thì vẫn có thể chấp tướng. Khi thỉnh các vị đó xuống vẫn nên ăn mặc quần áo dài nghiêm trang. Dù mình ngộ rồi nhưng vì lòng từ bi vẫn có thể khế hợp với đại chúng sơ cơ và các vị đó, mặc đồ dài. Còn Mật tông, hành giả đã đắc tánh Không và có Báo Thân viên mãn trong tâm, dù họ ở trần, thì trong tâm vẫn hiện tướng quốc độ trang nghiêm, cảnh giới quang minh nên ko lỗi. Bạn Kiệt ngồi thiền ở trần, có thể nên tu Vipassana tới chỗ, tự thấy “Ta không phải là thân này, ko phải là Tâm này.” Tới chỗ đó là Vô Ngã và thấy Tánh, hình thức sẽ ko chi phối, tránh việc ở trần trước Phật bị chư thần, thánh ghi lỗi phạm húy.